Tăng Trưởng Kinh Tế Là Gì? Các Yếu Tố Của Tăng Trưởng Kinh Tế

By Lê Hoàng Nam Updated on

Tăng trưởng kinh tế là gì? Đây chính là sự giải tăng của GDP hay GNP hoặc PCI tại một thời gian cụ thể. Bạn cần phải biết cách đầu tư sao cho hiệu quả nhất có thể để nền kinh tế được đẩy mạnh tăng trưởng.

Bạn đã hiểu rõ về thuật ngữ này hay chưa? Nếu chưa thì có thể tìm hiểu và theo dõi bài viết dưới đây của Taichinh.vip để cập nhật thêm nhiều kiến thức bổ ích nhé!

tăng trưởng kinh tế là gì

Khái niệm tăng trưởng kinh tế là gì?

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)/ tổng SP quốc dân (GNP)/ quy mô sản xuất quốc dân trên đầu người (PCI) trong thời gian nhất định.

Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào hai quá trình, đó là:

  • Tích lũy tài sản kinh doanh (như vốn, lao động và đất đai).
  • Đầu tư kinh doanh vào các tài sản đó một cách hiệu quả hơn.

Tiết kiệm và đầu tư là điều cần thiết, nhưng đầu tư phải hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng.

Chính sách của chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, trình độ y tế và giáo dục đều đóng vai trò ảnh hưởng đến tăng trưởng.

Tổng quan về tăng trưởng và phát triển nền kinh tế

Quy mô của một nền KT thể hiện bằng tổng SP quốc nội hoặc tổng sản phẩm QD (GNP), hoặc tổng SP bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (PCI).

Tổng sản phẩm quốc nội hay Tổng SP quốc nội là giá trị tiền tệ của các hàng hóa và DVCC được SX và tạo ra trong một nền KT trong 1 thời kỳ cụ thể.

Tổng SP quốc dân (GNP) là giá trị tiền tệ của các hàng hóa và DVCC được sản xuất bởi công dân của một quốc gia trong 1 thời kỳ nhất định (thường là một năm).

GNP = GDP + thu nhập ròng.

PCI = GDP/ dân số.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng GDP hoặc GNP hoặc TNBQ đầu người trong một khoảng thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế biểu hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế, trong đó có nền kinh tế Việt Nam.

Ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên dù TNBQ đầu người cao nhưng nhiều người vẫn sống trong cảnh nghèo đói.

Phát triển kinh tế có nội hàm rộng hơn là tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cũng như những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi trong cơ cấu kinh tế kinh doanh (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỉ trọng năng suất của khu vực sản xuất và dịch vụ ). 

Phát triển kinh tế là quá trình hoàn thiện mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong thời gian nhất định để đảm bảo rằng GDP cao hơn thì mức hạnh phúc càng cao.

Các lý thuyết về kế hoạch tăng trưởng kinh tế

Lý thuyết cổ điển

Chúng ta có thể kể đến các nhà kinh tế lỗi lạc như sau: Adam Smith, R. Malthus, David Ricardo,…

  • Adam Smith tin rằng tích lũy vốn và tiến bộ công nghệ cũng như các yếu tố xã hội và thể chế đóng một vai trò khá quan trọng trong sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

Tăng sản lượng thông qua việc tăng số lượng đầu vào tương ứng – vốn tăng theo mức độ. 

Tuy nhiên, vì đất đai có hạn, đến một lúc nào đó, sản lượng sẽ tăng chậm

  • R. Malthus: Dân số đang tăng theo cấp số nhân, và lương thực cũng tăng theo cấp số nhân (do sự hữu hạn của đất đai). 

Để duy trì tăng trưởng quá trình sản xuất, phải giảm gia tăng dân số

  • Theo Ricardo: tăng trưởng là kết quả của tích lũy, tích lũy là một hàm của lợi nhuận (LN), lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, đến lượt nó lại phụ thuộc vào đất đai. 

Tóm lại, các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith, R. Malthus, và David Ricardo nhấn mạnh vai trò quan trọng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên (như đất đai) trong tăng trưởng kinh tế.

Thuyết Keynes. Mô hình Harrod – Domar

Khi cuộc Đại suy thoái xảy ra (1929-1933), lý thuyết cổ điển tỏ ra bất lực trong việc giải thích các hiện tượng kinh tế như sản xuất thấp và tỷ lệ thất nghiệp cao liên tục.

Bên cạnh những thành tựu khoa học công nghệ như máy kéo, thuốc trừ sâu, kỹ thuật thâm canh, giống mới… sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng nhanh nên với quỹ đất “hạn hẹp”, lương thực vẫn đáp ứng đủ nhu cầu của mọi người.

Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền bạc của John Maynard Keynes (1883-1946) xuất bản năm 1936 đã chỉ ra rằng các nền KT hiện đại cần có các chính sách chủ động của chính phủ để quản lý và duy trì tăng trưởng kinh tế. 

Kết luận rút ra từ mô hình Harrod-Domar:

  • Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ nghịch với k.
  • Vì k thường cố định trong một khoảng thời gian, để điều chỉnh g, chỉ cần điều chỉnh s
  • Sự đánh đổi giữa tiêu dùng lúc này và tương lai.

Lý thuyết tân cổ điển

Mô hình Solow – Swan (Mô hình Solow)

Lý thuyết hiện đại

Lý thuyết tân cổ điển khẳng định rằng để có tăng trưởng lâu dài, người ta phải đạt được tiến bộ công nghệ, nhưng nó không chỉ ra các yếu tố quyết định của tiến bộ công nghệ (coi đây là yếu tố ngoại sinh).

Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế sau này cố gắng đưa tiến bộ công nghệ vào mô hình (các yếu tố nội sinh) để xem điều gì quyết định tiến bộ công nghệ.

Paul Romer, một nhà kinh tế học người Mỹ, đã đề xuất lý thuyết tăng trưởng kinh tế, trong đó tiến bộ công nghệ được quyết định bởi vốn tri thức, trong khi vốn tri thức phụ thuộc vào đầu tư R&D của nền kinh tế.

Ông chỉ ra rằng vốn tri thức là một loại vốn đặc biệt. Từ góc độ vi mô, nó có LN giảm dần (giống như các hình thức tư bản vật chất khác), nhưng từ góc độ vĩ mô, nó có LN tăng dần theo quy mô.

Do các công ty không sẵn sàng đầu tư kinh doanh nhiều vào R&D nên chính phủ cần thực hiện các chính sách để thúc đẩy hoạt động này.

  • Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
  • Hỗ trợ các hoạt động R&D
  • Tài trợ cho giáo dục: (giáo dục là quốc sách hàng đầu)

Đâu là những chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế

những chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế

Quy mô nền KT được biểu hiện bằng tốc độ tăng GDP, GNP và PCI. Bạn có thể tìm hiểu thông tin qua:

  • Tổng SP quốc nội: GDP là giá trị của tổng lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (DVCC) được SX ở một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
  • Tổng sản phẩm QD (GNP): GNP là giá trị của tất cả hàng hóa và DVCC được sản xuất bởi công dân của một quốc gia trong một thời kỳ cụ thể, thường là 1 năm.
  • TNBQ đầu người (PCI): phản ánh sự tăng trưởng kinh tế có tính đến sự tiến hóa của dân số, được tính bằng công thức lấy GDP hoặc GNP chia cho tổng dân số của quốc gia đó.

Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế

Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển và đang phát triển, các nhà kinh tế nhận thấy rằng động lực của phát triển KT phải đi kèm với bốn bánh, hay bốn lõi.

Các yếu tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, tư bản và công nghệ.

Bốn yếu tố này khác nhau ở mỗi quốc gia, và cách họ kết hợp chúng cũng dẫn đến kết quả tương ứng.

  • Nguồn nhân lực: Chất lượng lực lượng lao động (LLLĐ), tức là kỹ năng, kiến ​​thức và kỷ luật của LLLĐ, là yếu tố quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế.
  • Tài nguyên thiên nhiên: Là một trong những yếu tố cổ điển của sản xuất, tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và tài nguyên nước.
  • Tư bản: là một trong những yếu tố của sản xuất, tùy theo mức vốn mà người lao động có thể sử dụng máy móc, thiết bị… nhiều hay ít (tỷ lệ vốn trên một lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp.
  • Công nghệ: Trong suốt lịch sử nhân loại, tăng trưởng kinh tế vốn dĩ không phải là một sự sao chép đơn thuần, mà chỉ đơn giản là sự gia tăng lao động và tư bản.

Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa gì?

Tăng trưởng kinh tế luôn là một trong những mục tiêu chính của tất cả các quốc gia trên thế giới.

Lợi ích mà tăng trưởng kinh tế mang lại cho một quốc gia:

  • Tăng trưởng KT được thể hiện bằng sự gia tăng về số lượng và chất lượng hàng hóa và dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra chúng.
  • Tăng trưởng kinh tế làm nâng cao mức thu nhập của dân cư, cải thiện phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
  • Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết việc làm, nâng cao tỷ lệ việc làm.
  • Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để cung cấp nguồn lực củng cố quốc phòng, an ninh – chế độ chính trị.
  • Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế so với các nước đang và đã phát triển.

Công thức đo lường tăng trưởng kinh tế

công thức đo lường tăng trưởng kinh tế

Để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế, người ta có thể sử dụng tốc độ tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong 1 thời kỳ.

Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối là sự chênh lệch về quy mô kinh tế giữa hai thời kỳ được so sánh.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế – Theconomic Growth được tính bằng cách lấy hiệu số giữa quy mô kinh tế thời kỳ hiện tại với quy mô kinh tế thời kỳ trước lấy quy mô kinh tế thời kỳ trước lấy. Tăng trưởng KT được biểu thị bằng%.

Được biểu diễn bằng toán học, chúng ta sẽ có công thức:

y = dY / Y × 100 (%)

trong đó:

  • Y là quy mô nền KT và y là tốc độ tăng trưởng. 

Nếu quy mô KT được đo bằng GDP danh nghĩa (hoặc GNP), thì sẽ có một tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa.

Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP thực (hoặc GNP), thì có tốc độ tăng trưởng GDP thực (hoặc GNP).

Thông thường, tăng trưởng kinh tế sử dụng các chỉ số thực thay vì danh nghĩa.

Tóm lại

Qua bài viết này, Taichinh.vip muốn giúp bạn tìm hiểu được Tăng trưởng kinh tế là gì. Kèm theo đó là hàng loạt các thông tin liên quan tới khái niệm này. Nếu bạn cảm thấy nội dung trên là thực sự hữu ích thì hãy dành chút thời gian để like và share nó đến với mọi người nhé! Xin cảm ơn quý người đọc rất nhiều!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *